Một số nguyên nhân gây chậm sinh, vô sinh ở trâu bò và biện pháp khắc phục

2022-03-28 15:07:06

Bệnh chậm sinh, vô sinh ở trâu, bò cái là hiện tượng khi trâu, bò cái tơ đến tuổi sinh sản mà không xuất hiện động dục (trâu 3 năm tuổi, bò 2 năm tuổi trở lên không động dục), trâu bò rạ sau khi sinh (trâu sau 6 tháng, bò sau 3 tháng) không có biểu hiện động dục trở lại hoặc động dục nhưng phối giống nhiều lần không đậu.

Trong thực tế chăn nuôi trâu, bò sinh sản hiện nay tỷ lệ mắc bệnh chậm sinh, vô sinh ngày càng cao. Để giảm tỷ lệ mắc bệnh chậm sinh, vô sinh và nâng cao tỷ lệ sinh sản của đàn trâu bò cái, người chăn nuôi cần phát hiện đúng nguyên nhân gây bệnh và đưa ra biện pháp can thiệp kịp thời.

 

Nguyên nhân dẫn đến hiện tượng chậm sinh, vô sinh trên trâu bò có rất nhiều nhưng chủ yếu do các nguyên nhân sau:

 

- Trâu, bò bị lưỡng tính: Thường xảy ra đối với trâu bò tơ khi sinh đôi cùng với bê, nghé đực làm giới tính của nó bị lưỡng tính. Khả năng vô sinh ở những con trâu bò này trên 90% và hiện nay chưa có biện pháp can thiệp. Do vậy người chăn nuôi không nên để nuôi sinh sản những bê nghé cái sinh đôi với bê nghé đực.

 

- Cơ quan sinh dục phát triển không bình thường: Tử cung, buồng trứng kém phát triển, thậm chí không có tử cung... Nguyên nhân có thể do chế độ dinh dưỡng kém, cũng có thể do bẩm sinh.

+ Nếu cơ quan sinh sản của trâu bò bị dị hình, khiếm khuyết bẩm sinh thì không có cách chữa trị cần loại thải ngay.

+ Nếu do yếu tố dinh dưỡng thì cần cải thiện chế độ dinh dưỡng và cách chăm sóc. Trâu bò quá mập hay quá gầy đều ảnh hưởng đến sự phát triển của buồng trứng. Do vậy cần duy trì thể trạng ở mức trung bình.

 

- Bệnh viêm nhiễm đường sinh dục: Phổ biến là viêm tử cung. Nguyên nhân chủ yếu làm tử cung của trâu bò bị viêm nhiễm là do bò bị sót nhau, đường sinh sản bị tổn thương trong khi đẻ. Trâu bò càng mập lúc đẻ thường đi kèm với hiện tượng đẻ khó, sót nhau, thai lớn và nguy cơ viêm nhiễm đường sinh sản càng cao.

+ Triệu chứng trâu bò bị viêm tử cung rõ nhất là dịch thải từ tử cung kéo dài quá 2 tuần hoặc có mùi rất hôi (cổ tử cung luôn mở).

+ Để khắc phục hiện tượng này cần giữ vệ sinh chỗ nằm của trâu bò mẹ. Bổ sung Selen và vitamin E vào khẩu phần. Duy trì thể trạng của trâu bò không quá gầy, không quá mập bằng cách điều chỉnh lượng thức ăn tinh và thức ăn thô. Khi trâu bò bị bệnh thực hiện điều trị như sau:

Đầu tiên sử dụng HANIODINE 10% (hoặc lugol 1%) pha loãng 10ml với 1lít nước để thụt rửa tử cung hàng ngày.

Sử dụng kháng sinh để điều trị: Norfloxacin, Oxytetracyline: 3-4gr pha dung địch bơm lưu tử cung. Có thể sử dụng viên đặt tử cung Han-V.T.C 1-2 viên/ngày. Điều trị 4-5 ngày, khỏi viêm, theo dõi động dục và phối giống.

 

- Thể vàng tồn lưu: Thông thường trứng không được thụ tinh thì thể vàng sẽ bị tiêu biến và con vật động dục trở lại. Nếu trứng được thụ tinh, hormon do thể vàng tiết ra có tác dụng giữ an toàn cho thai và con vật không động dục trong suốt thời gian mang thai, trường hợp này gọi là thể vàng sinh lý. Nếu con vật không mang thai nhưng thể vàng không tiêu biến mà tồn lưu qua nhiều chu kỳ tiếp theo làm bò không động dục trong thời gian dài gọi là thể vàng tồn lưu hay thể vàng bệnh lý.

Có nhiều nguyên nhân gây ra hiện tường thể vàng tồn lưu ở bò nhưng chủ yếu do có những vật thể tồn tại trong tử cung: phôi/thai chết, thai chết ngâm, thai gỗ, u nhầy…

Biện pháp khắc phục khi bò bị thể vàng tồn lưu: có thể dùng tay bóc thể vàng thông qua trực tràng, tuy nhiên phương pháp này đòi hỏi phải có kinh nghiệm. Ngoài ra, có thể dùng hormone sinh sản,chế phẩm đặt âm đạo để điều trị bệnh thể vàng tồn lưu ở trâu bò:

+ Ngày 1: Tiêm 2 ml Han-Prost và 2,5 ml Gonadorelin.

+ Ngày 7: tiêm 2,5 ml Gonadorelin.Sau khi tiêm ngày thứ 7 theo dõi động dục ở trâu bò để phối giống, nhưng tốt nhất nên bỏ qua chu kỳ đầu đến chu kỳ động dục thứ 2 mới thực hiện phối giống.

 

- U nang nang trứng: Hiện tượng nang trứng không rụng mà lưu lại buồng trứng có đường kính >2,5cm gọi là u nang buồng trứng. U nang buồng trứng có thể được phân làm 2 dạng là u nang cường dục và u nang không động dục. Ở dạng cường dục, bò động dục liên tục và thường xuyên (có thể 10 ngày động dục một lần), dạng không động dục thì bò không có biểu hiện gì.

Nguyên nhân gây bệnh u nang buồng trứng hiện nay chưa được xác định chính xác. Tuy nhiên, bệnh u nang buồng trứng thường phát hiện trong các trường hợp chế độ chăm sóc nuôi dưỡng kém, thức ăn không cân đối dinh dưỡng (mức canxi ăn vào quá nhiều, tỷ lệ Ca: P >2) thiếu chất nhất là thiếu Vitamin A,D,E,B, thức ăn nhiễm độc tố nấm mốc,…

Do vậy để phòng bệnh u nang buồng trứng cần kiểm soát thức ăn đảm bảo chất lượng, không bị nhiễm độc tố nấm mốc, cân bằng tỷ lệ Ca: P <2.

Điều trị bệnh u nang buồng trứng có có thể áp dụng phác đồ sau:

+ Ngày 1: tiêm 5 ml Gonadorelin.Sau 7 ngày tiêm nhắc lại.
+ Ngày 9: tiêm 2 ml Han-Prost. Sau khi tiêm ngày thứ 9 theo dõi trâu bò động dục để phối giống, nhưng tốt nhất nên bỏ qua chu kỳ đầu đến chu kỳ động dục thứ hai mới thực hiện phối giống.

 

Nguồn: Hà Linh- Trung tâm KN Thanh Hóa

 


Chia sẻ:

Tin cùng danh mục Xem tất cả >>

Kỹ thuật nuôi và vỗ béo trâu thịt

Ở nước ta, nuôi trâu chủ yếu để lấy sức kéo nên tiềm năng sản xuất trâu thịt hầu như không được chú ý đến. Thực chất thịt trâu giống như thịt bò về nhiều tính chất cơ bản: cấu trúc, thành phần hoá học, giá trị dinh dưỡng, vị ngon. Thịt nghé non, trâu tơ hoặc trâu nuôi chuyên thịt là loại thịt rất ngon, giá bán rất cao.

Phòng trị bệnh lở mồm long móng ở trâu bò

Bệnh lở mồm long móng (LMLM) là một bệnh truyền nhiễm cấp tính chung cho nhiều loài gia súc và một số loài thú hoang, có thể lây từ súc vật sang người. Ở nước ta, hàng năm bệnh thường xảy ra ở một số tỉnh, đặc biệt là các tỉnh miền núi biên giới Việt - Trung, Việt - Lào và Việt - Campuchia, gây nhiều thiệt hại kinh tế cho chăn nuôi trâu bò. Bệnh do virut LMLM gây ra và lây qua đường hô hấp, đường tiêu hóa.

Chẩn đoán trâu có thai

Có nhiều phương pháp chẩn đoán có thai ở trâu:

Nuôi dưỡng và chăm sóc nghé non

Ở nghé sơ sinh, dạ dày cũng đủ 4 túi như trâu, nhưng dạ múi khế chiếm gần 50% thể tích và là nơi tiêu hoá chính của nghé. Sữa bú từ vú mẹ không đi vào dạ cỏ mà được chuyển trực tiếp xuống dạ múi khế thông qua rãnh thực quản. Trong bốn tuần đầu sau khi sinh, tiêu hoá của nghé gần giống như ở gia súc dạ dày đơn, sau đó dạ dày phát triển dần và tiêu hoá 4 túi được hình thành.